Cây chè tiếp tục khẳng định là cây trồng chủ lực, thế mạnh của tỉnh
2025-06-26 14:00:00.0
Sản phẩm trà được đóng gói đẹp mắt, có truy xuất nguồn gốc rõ ràng. (Trong ảnh: Sản phẩm trà của Hợp tác xã Chè Kim Thoa, xã Phúc Xuân, TP. Thái Nguyên)
Dự ước đến hết năm 2025, tổng diện tích chè toàn tỉnh đạt 22.620 ha/23.500 ha; sản lượng chè búp tươi đạt 275.000 tấn/273.000 tấn, bằng 100,7% mục tiêu của Đề án; giá trị sản phẩm chè sau chế biến đạt 14.800 tỷ đồng/7.976 tỷ đồng, bằng 185,6% mục tiêu của Đề án; giá trị sản phẩm trà thu được trên 01 ha trồng chè ước đạt 680 triệu đồng/350 triệu đồng/ha, bằng 194,3% mục tiêu của Đề án. Sản lượng chè qua chế biến toàn tỉnh đạt trên 55 nghìn tấn/năm,
Các cấp, ngành của tỉnh tập trung chỉ đạo nhiều giải pháp nhằm gia tăng giá trị cây chè, mang lại thu nhập cho người dân như: Tập trung mở rộng diện tích, chuyển đổi cơ cấu giống trong trồng mới, trồng thay thế giống, cải tạo lại những diện tích chè già cỗi, năng suất, chất lượng thấp bằng các giống có năng suất, chất lượng cao, nâng cao giá trị sản phẩm, an toàn thực phẩm, như: LDP1, Kim Tuyên, Hương Bắc Sơn, TRI777, TRI5.0, Bát Tiên, Phúc Vân Tiên, LCT1, PH14, VN15,... Trong 5 năm (2021 - 2025), trên địa bàn tỉnh trồng mới, trồng lại được 2.129,8 ha chè.
Thành viên Hợp tác xã Chè Hảo Đạt, TP. Thái Nguyên thu hái chè
Duy trì và phát triển các vùng sản xuất chè tập trung ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ cao trong sản xuất, chế biến, liên kết tiêu thụ chè an toàn, chất lượng với tổng diện tích khoảng trên 6,5 nghìn ha.
Cùng với chuyển đổi cơ cấu giống, các địa phương trong tỉnh đã chú trọng đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ trong sản xuất, chế biến chè an toàn VietGAP, hữu cơ, nâng cao chất lượng sản phẩm và góp phần trong thúc đẩy phát triển nông nghiệp bền vững. Toàn tỉnh có trên 7.000 ha chè được ứng dụng công nghệ tưới tiên tiến, tiết kiệm nước (lắp đặt hệ thống tưới nước tự động, bán tự động), chiếm 31,5% diện tích chè toàn tỉnh. Hầu hết, diện tích chè sản xuất tập trung trên địa bàn tỉnh được áp dụng theo tiêu chuẩn GAP, hữu cơ và tương đương khoảng trên 17.800 ha. Công tác xây dựng thương hiệu sản phẩm trà Thái Nguyên được triển khai rất tích cực: Cục Sở hữu trí tuệ đã cấp văn bản bảo hộ cho các sản phẩm chè của tỉnh, gồm: 01 Chỉ dẫn địa lý Tân Cương; 10 nhãn hiệu tập thể; 02 Nhãn hiệu chứng nhận (gồm Chè Phú Lương và Chè Võ Nhai). Sản phẩm chè Thái Nguyên đã được tiêu thụ rộng rãi trong và ngoài tỉnh. Năm 2024, giá trị xuất khẩu chè ước đạt 2,6 triệu USD, thị trường xuất khẩu chủ yếu là các nước như: Pakistan, Afghanistan, Ấn độ, Indonesia, Iran, Trung Quốc, Đài Loan (Trung Quốc)... trong đó Pakistan chiếm thị phần xuất khẩu chủ yếu.
Hợp tác xã Tuyết Hương, xã Hóa Trung, huyện Đồng Hỷ đầu tư nhiều máy móc phục vụ sản xuất, chế biến chè
Các cơ sở sản xuất, chế biến đã tăng cường đầu tư, ứng dụng cơ giới hóa tất cả các khâu chế biến sản phẩm. Trên địa bàn tỉnh có 62 doanh nghiệp, 168 hợp tác xã, 251 làng nghề truyền thống, với trên 91.000 hộ sản xuất, chế biến chè, trong đó có trên 80% hợp tác xã, doanh nghiệp đầu tư công nghệ đóng gói tự động, sử dụng tem điện tử để truy xuất, minh bạch nguồn gốc sản phẩm.
Giá chè xanh qua chế biến tiêu thụ trong nước luôn cao hơn các vùng chè khác và tương đối ổn định, giá sản phẩm trà móc câu trung bình từ 300.000 đồng/kg đến 500.000 đồng/kg, trà tôm nõn từ 600.000 - 1.000.000 đồng/kg tu theo vụ và theo vùng. Một số vùng chè đặc sản như Tân Cương, La Bằng, Trại Cài, Tức Tranh,... sản xuất một số sản phẩm chè cao cấp như trà đinh có giá trị cao từ 2,5 triệu đồng đến 5 triệu đồng/kg thành phẩm.
thainguyen.gov.vn